Poorly Made in China!!!

0 No tags Permalink

Đây là tên một cuốn sách best seller của tác giả Paul Midler viết về lý do vì sao hàng TQ bị coi là kém chất lượng nhưng vẫn phổ biến trên toàn thế giới. Như vậy là cơn lũ hàng Trung Quốc đã là thực trạng không chỉ của Việt Nam mà của cả thế giới. Nhưng hàng Trung Quốc mà dân gian thường gọi là hàng Tàu trong ký ức của tôi không mang gương mặt xấu xí như vậy.

Tôi sinh ra và lớn lên ở Hải phòng, nơi từng có hẳn một phố gọi là phố Trung Quốc, nơi chủ yếu là người Hoa sinh sống. Hàng ngày, tôi đi học qua những căn nhà của người Hoa, chứng kiến những sinh hoạt hết sức bình dân của họ. Người Hoa ở Hải phòng thời ấy hầu hết đều nghèo, quần áo chủ yếu màu xanh công nhân, đàn ông ở nhà thường cởi trần hay mặc áo may ô màu cháo lòng che cái bụng khá bệ vệ. Những bạn học người Hoa của chúng tôi thường cắt tóc ngang vai hoặc tết đuôi sam nhưng cũng nói tiếng Việt, sinh hoạt như mọi trẻ em khác.  Ở lớp sau một chút e ngại ban đầu vì cái họ lạ lẫm như họ Vương, họ Tô… thì chúng tôi chơi với nhau rất thoải mái. Nhưng khái niệm Trung Quốc thời ấy với tôi chủ yếu là các món ăn của người Hoa, bán khắp hang cùng ngõ hẻm của cái thành phố Cảng nhỏ bé và chậm rãi thời ấy. Bước chân đến cổng trường là hàng thạch, lục tàu xá, hạt dẻ rang… lên phố là các hàng mì vằn thắn, sủi cảo, bánh bao… Sang hơn một chút là vịt quay, heo sữa quay… Tôi vẫn nhớ thời bao cấp trẻ em bao giờ cũng đói, giờ tan học đi về trên phố Minh Khai, phải đi thật nhanh qua mấy con vịt quay là một dày vò lớn của bản thân tôi. Đấy cũng là lý do khi vừa bước chân ra nước ngoài, trong lần đi chợ đầu tiên tôi đã mua hẳn 1 con gà quay (châu Âu không có vịt) về ăn cho đã, nhưng sau lần ấy thì không ăn được nữa. Với túi tiền của hai bố mẹ làm giáo viên thời bao cấp, những món ăn ấy luôn là niềm mơ ước của hầu hết trẻ em, đến nỗi khi tôi được vào đội tuyển thi Toán cấp Thành Phố, chúng tôi được thành phố cấp cho 1 phiếu mua thực phẩm gồm 0.5kg cá khô, 10 quả trứng vịt, 4 bìa đậu phụ, 5 kg gạo và trong những ngày thi được 1,5đ  bồi dưỡng. Tất cả các học sinh đều đồng ý đi ra quán ăn Tàu ăn một bát mì vằn thắn và 1 cái bánh bao mà tôi chưa bao giờ thấy món nào ngon đến thế!

Gia sản lớn nhất của mỗi gia đình thời ấy là xe đạp, mỗi cán bộ đi làm trong đời được phân phối 1 chiếc xe đạp giá rẻ. Chỉ có 2 loại xe đạp là xe Thống Nhất của Việt nam và xe Phượng Hoàng của Trung Quốc. Do Nhà nước không phân biệt hai loại xe này nên nhiều cơ quan phải tổ chức bắt thăm và ai bắt được xe Phượng Hoàng là ngang với trúng số độc đắc!

Thời ấy cái gì cũng phải tem phiếu. Mỗi khi có đám cưới, sau khi đăng ký kết hôn, cô dâu chú rể sẽ được phát 1 phiếu mua hàng, theo đó họ được mua 1 đôi gối, 1 vỏ chăn, 1 cái màn đôi, 10 bát sứ, 1 cái phích nước… Ước mơ lớn nhất của cô dâu chú rể là mua được phích nước và vỏ chăn Trung Quốc vì phích giữ nước nóng được 24h  và vỏ chăn rất bền màu.

Sách vở thời đó cũng rất thiếu thốn, một tờ họa báo in màu cũng rất được nâng niu vì sẽ là tờ bọc sách vở rất tốt. Với mục đích này thì Họa báo Trung Quốc là nhất vì in màu rất đẹp, giấy mỏng, dai chứ không cứng như họa báo Liên Xô nên rất phù hợp để bọc sách vở. Do ít sách văn học thiếu nhi nên tôi thường vùi đầu vào kho sách lịch sử của ông ngoại và bố tôi. Một trong những cuốn sách tôi ưa thích thời nhỏ là Lược sử Mỹ thuật Việt Nam, trong đó trình bày rất kỹ về những công trình kiến trúc nổi tiếng thời phong kiến của Việt Nam, từ chùa Dâu, chùa Một Cột đến đền Quán Thánh…, qua đó tôi nhận ra trong suốt lịch sử Việt Nam, đồ quý đều học theo Trung Quốc hay nhập từ Trung Quốc. Điều ấy cũng không có gì đáng ngạc nhiên nếu xét về mối bang giao giữa hai quốc gia và sự nghèo đói trong đời sống vật chất của Việt Nam. Vì vậy, tôi vẫn có lòng tôn trọng với hàng và người Trung Quốc. Đặc biệt sự kiện người Trung Quốc hồi hương hàng loạt năm 1979, làm bạn bè, cô giáo của tôi bỏ đi rất vội vàng trong đau buồn, để lai một khoảng trống lâu dài trong lòng tôi. Những hàng quán quen thuộc cũng biến mất, mặc dù sau này người Việt cũng cố mở quán bán những món ăn đó nhưng hương vị của nó không bao giờ được như xưa.

Cuộc chiến 1979 đã cắt đứt quan hệ thương mại giữa hai quốc gia từ 1979 -1990, trong thời gian ấy hàng Trung Quốc chỉ còn là dĩ vãng. Trong điều kiện kinh tế khó khăn, các bà các mẹ vẫn nhắc đến chăn con công, phích nước Trung Quốc… với sự tiếc nuối. Hàng ngoại chỉ có hàng Nga và Đông Âu mà chủ yếu về bằng đường xách tay nên rất khan hiếm. Những chiếc ô tô KAMAZ kềnh càng của Nga không phù hợp với đường xá nhỏ hẹp của Việt Nam nên không phát huy tác dụng. Mặc dù trước sức ép các nước XHCN cắt viện trợ , Việt nam phải tiến hành cải tổ đường lối phát triển kinh tế nhưng vẫn rất chậm chạp. Tôi còn nhớ thời đó dân gian có câu vè

“Đổi mới thì Đổi mới đi

Cứ Tư duy mãi lấy gì mà ăn”,

cho thấy những chính sách thời ấy chưa thay đổi được được cục diện kinh tế Việt nam bao nhiêu.

Cuối năm 1989 tôi có dịp đi nước ngoài khoảng 4 tháng, đến đầu 1990 mới về và ngạc nhiên khi nhận ra bộ mặt đời sống kinh tế của Việt nam thay đổi hẳn, hàng hóa nhiều hơn và trông cũng “bắt mắt” hơn. Hỏi ra mới biết biên giới Việt Trung đã mở cửa trở lại, hàng hóa Trung Quốc tràn vào Việt Nam, với giá cả rẻ hơn nhiều so với hàng Đông Âu và hàng Thái Lan nên rất được ưa chuộng. Những chiếc xe tải nhẹ, phù hợp với đường xá VN, xe máy giá chỉ bằng 1/3 giá xe Thái Lan bắt đầu tràn ngập các tỉnh thành VN. Thời đó còn có  mốt đi chơi lên Lạng Sơn, Móng Cái để mua hàng trên chợ biên giới, rất rẻ và dồi dào. Chính nhờ giao thương với Trung Quốc mà các tỉnh biên giới của hai bên đã phồn thịnh lên rất nhiều, có lợi cho dân chúng cả hai quốc gia. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, hàng Trung Quốc lộ ra rất nhiều nhược điểm như chất lượng kém, nhiều thông tin về chất độc hại trong sản phẩm… Sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN và bình thường hóa quan hệ với Mỹ, mở cửa thương mại, hàng hóa nước ngoài tràn vào Việt nam, người dân có sự lựa chọn rộng rãi hơn, vị trí hàng Trung Quốc từ chỗ là ước mơ, trở thành biểu hiện của sự kém giá trị. Nhiều người đi mua hàng, nhìn thấy chữ Made in China là bỏ đi.

Nhưng mặc dù chê bai hàng Trung Quốc, mà giờ đây dân gian gọi là hàng Tàu nhưng thực tế rất ít ai tránh được nó vì đã tràn ngập khắp hang cùng ngõ hẻm trong đời sống của người Việt. Như trong truyện ngắn “Trời hỡi làm sao cho khỏi… Lọa???” của Nguyễn Ngọc Tư, chú Tư cấm vợ con dùng hàng Tàu nên không được mở TV (vì hễ mở là có phim Tàu), không dùng điện thoại, không ăn hoa quả, thay hết quần áo, đập chén dĩa, phích nước, đồ điện tử trong nhà…. Vợ con chịu hết xiết, một ngày thằng con đi học về bảo chú đồ VN chú bắt mua dùng linh kiện cũng của Tàu, tên mình cũng có gốc Tàu luôn. Muốn đi đổi tên phải làm đơn mà “mấy cái đơn xin không biết viết sao cho nó Việt hết cỡ, thí dụ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” thì mình viết là “một mình sung sướng thoải mái” được không?” Chú Tư ngã vật ra chết giấc. Cũng may nhà còn sót lại chai dầu cù là nhập bên.. Tàu mới đánh gió lay tỉnh chú được![1]

Truyện ngắn rất thực tế mà cũng rất hài hước ấy cho thấy, tẩy chay hàng hóa của Tàu nói riêng và của các quốc gia khác nói chung trong thời buổi toàn cầu hóa này là bất khả. Trong những dịp đi công tác ở châu Âu, Mỹ… tôi thấy họ dùng hàng TQ rất phổ biến và hàng Made in China cũng có rất nhiều loại, từ cao cấp đến bình dân. Mặc dù hàng TQ mang tiếng xấu nhưng do sức hút của giá cả, mẫu mã nên vẫn bán khá chạy. Một học giả nước ngoài đã viết: “Bạn khó có thể từ chối dùng hàng Trung Quốc vì quyết định ấy sẽ làm đời sống của bạn sẽ tốn kém hơn nhiều”. Nhưng khó có nước nào việc lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc lại nặng nề như Việt Nam, từ hàng tiêu dùng đến những thiết bị viễn thông cao cấp, các công trình thầu EPC… Vì vậy, việc tẩy chay hàng TQ ở VN có vẻ không khả thi, chưa kể nó còn đi ngược nguyên tắc Tự do hóa thương mại của WTO. Và ta cũng phải nghĩ ngược lại, sẽ ra sao nếu Trung Quốc cũng từ chối dùng hàng Việt nam? Quyết định như vậy không chỉ gây tổn hại đến bang giao giữa hai dân tộc mà còn gây thiệt hại cho kinh tế của hai nước.

Vì vậy, thay vì chê bai hàng Trung Quốc, kêu gọi tẩy chay nó sao chúng ta không nghĩ đến việc học hỏi Trung Quốc để làm tốt hơn họ? Ông Nguyễn Thành Nam, nguyên Tổng Giám đốc FPT đã viết trong lá thư gửi con nhân ngày sinh nhật Bác là “ba muốn nói với các con rằng, đừng phê phán kỳ thị, hãy sang Trung quốc để chiêm ngưỡng những thành tựu của họ, tìm lấy 1 sản phẩm, 1 vấn đề mình quan tâm và tự đặt câu hỏi: tại sao họ  làm được mà ta lại không làm được? Hàng ngàn, hàng vạn người đặt câu hỏi, sẽ có người tìm được câu trả lời”. Và thực tế là năm 2007 FPT đã thành công trong việc huấn luyên một nhóm lập trình viên, trong đó có cả những người chưa tốt nghiệp ĐH, chỉ trong vòng 6 tháng đạt được năng suất lao động cao hơn các công ty Trung quốc đã có kinh nghiệm nhiều năm để thắng thầu cung cấp phần mềm cho công ty Nhật Bản![2] Như một giám đốc người Nhật đã nói “người Việt Nam giỏi lắm, thông minh lắm, kiên cường lắm vì người Nhật đã thua người Mỹ, còn người Việt Nam thì lại thắng nước Mỹ, làm cả nước Nhật thấy sỉ nhục. Nhưng 20 năm qua đi, Nhật Bạn có Toyota, có Honda, có Mitsubishi, Việt Nam có gì? Người Hàn Quốc chịu sỉ nhục trước người Nhật, họ có Hyundai, có Samsung, có LG, Việt Nam có gì?[3]. Biến cố lịch sử Trung Quốc đe dọa biển đảo Việt nam đã thúc đẩy chúng ta nhìn lại sự lệ thuộc của thị trường Việt Nam vào thị trường Trung Quốc. Cùng là châu Á, cùng chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa TQ như chúng ta như sao Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore hay thậm chí là Đài Loan đã tránh được sự lệ thuộc kinh tế vào nước khác? Vì sao một hòn đảo nhỏ như Đài Loan, địa vị chính trị còn khó khăn hơn chúng ta nhiều lại có thể thoát được sự lệ thuộc kinh tế vào Trung Quốc mà chúng ta thì không? Đã đến lúc chúng ta phải nhìn lại mình để mở rộng bang giao, đa phương hóa hơn nữa quan hệ kinh tế và nâng cao khả năng tự cường đề chúng ta khỏi chết ngất khi muốn bài trừ hàng nước Lọa như chú Tư trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.

[1] Nguyễn Ngọc Tư, “Trời hỡi làm sao cho khỏi…Lọa”, http://www.nguyenngoctu.net/2009/08/troi-hoi-lam-sao-cho-khoi-loa.html

[2] Nguyễn Thành Nam, Gửi con nhân ngày sinh nhật Bác, https://www.facebook.com/notes/nguy%E1%BB%85n-th%C3%A0nh-nam/g%E1%BB%ADi-con-nh%C3%A2n-ng%C3%A0y-sinh-nh%E1%BA%ADt-b%C3%A1c/10152328397046877

[3] Hoàng Đức Minh, Tôi nghĩ Việt Nam là thuộc địa của Trung Quốc, http://www.triethocduongpho.com/2014/05/27/toi-nghi-viet-nam-la-thuoc-dia-cua-trung-quoc/

 

alt :

No Comments Yet.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *