Tôi nghĩ ký ức đầu tiên của tôi về căn phòng nhỏ bé trên tầng 3 ngôi nhà phố Cầu Đất, Hải Phòng của tôi là cái tủ sách. Như mọi gia đình Việt nam thời bao cấp, cả gia đình gồm bố mẹ và ba chị em tôi chen chúc trong một căn phòng hơn 20m2 và một khoăng sân thượng chừng 15m2 làm công trình phụ. Trong khoảng không bé nhỏ ấy, đồ đạc quan trọng nhất có lẽ là cái tủ sách từ chân tường đến trần nhà. Trong tầm tay chúng tôi, bố tôi sắp sách thiếu nhi, sách giáo khoa, còn các tầng trên cùng là tiểu thuyết và những sách giành cho người lớn. Giường tôi kê ngay cạnh tủ sách, khi nằm xuống tôi thường rút một cuốn sách để đọc cho đến khi bố mẹ bắt tắt đèn đi ngủ. Sáng mở mắt ra thứ đầu tiên tôi nhìn thấy là cái tủ sách, trước khi đi ngủ chị em tôi cùng nói chuyện về những quyển sách chúng tôi đã đọc hay muốn mua và sau khi bị tắt đèn tôi nằm nhìn tủ sách, ước ao sẽ có ngày mình đọc được những cuốn sách đẹp đẽ tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh của bố mẹ tôi trong tủ.
Kỷ niệm êm đềm nhất của tôi có lẽ là những buổi tối thứ bảy, khi bố tôi không phải đi dạy và nằm dịch vài chương Ba người lính ngự lâm hay Bá tước Monte Cristo cho chúng tôi. Trong hoàn cảnh sống nghèo nàn của đất nước thời chiến tranh, bị tách rời với cả thế giới, những câu chuyện phiêu lưu kỳ thú đó đã nuôi dưỡng ước mơ về những vùng đất xa xôi, đẹp đẽ trên thế giới, những con người tài giỏi, kiên cường để mình vươn tới. Tôi cũng ao ước lớn lên sẽ học thật nhiều ngoại ngữ để có thể dịch sách như bố mẹ tôi.Những buổi tối mất điện, cả nhà trải chiếu nằm ngoài sân thượng, ngửa mặt ngắm vầng trăng vằng vặc trên trời, bố mẹ tôi kể về kỷ niệm thời thơ ấu. Mẹ tôi kể chuyện về ông ngoại tôi, một người rất uyên bác, giỏi cả chữ Nho và tiếng Pháp (ông tôi là một trong các dịch giả của tập thơ Đường ở Việt Nam, từng có sách giới thiệu về tác phẩm và cuộc đời ông). Bác cả của tôi cũng học rất giỏi, được học bổng đi học ở Pháp rồi được giác ngộ cách mạng bên ấy, trở về Việt Nam theo đoàn quân về giải phóng Thủ đô. Bố tôi kể chuyện ông nội tôi dù chỉ là một trung nông trong làng nhưng rất trọng việc học.Ông luôn nhắc nhở bố tôi và bác tôi phải đi học để được hiểu biết, tiến xa hơn đời ông bà tôi, chỉ biết gắn với mảnh ruộng sau luỹ tre làng. Chính vì thế bố tôi đã chăm chỉ học tập để luôn đạt loại Ưu và được học bổng vào học ở trường Albert Sarraut, là ngôi trưởng chỉ giành cho người Pháp và con cái quan lại Việt Nam. Bố mẹ tôi đều đỗ vào Đại học, việc khá hiếm hoi thời những năm 60 và trong suốt thời gian làm giáo viên, bất chấp đời sống khó khăn, bận bịu con cái, cả hai đều không ngừng bồi bổ kiến thức của mình. Chính nhờ chuyên môn vững vàng và lối sống trung thực, nhân ái, bố mẹ tôi được rất nhiều đồng nghiệp, sinh viên yêu quý. Những dịp lễ Tết, 20/11 nhà tôi luôn đông nghịt học sinh cả cũ và mới đến thăm hỏi. Chúng tôi rất hãnh diện vì được nhiều anh chị học sinh quan tâm, chiều chuộng, nhiều người còn trở thành như anh chị của chúng tôi.Vì thế, mặc dù phải sống xa ông bà, các cô dì chú bác nhưng chúng tôi không cảm thấy cô đơn. Mãi sau này khi đã làm giáo viên, tôi mới hiểu bố mẹ tôi đã cho chúng tôi một di sản quý báu thế nào qua cách sống của mình.
Tôi là chị lớn trong nhà, sau tôi là hai đứa em một trai một gái. Sống trong gia đình có truyền thống học tập, việc yêu thích sách vở, kiến thức đến với tôi một cách rất tự nhiên. Từ khi tôi bắt đầu đi học bố tôi đã luôn dặn dò là: “Con ơi, nhà mình không giàu cũng không có thế lực gì nên điều duy nhất bố mẹ cho con được là học vấn. Con phải cố mà học vì chỉ có học mới có thể giúp con mở mang tầm mắt, có được cuộc sống tốt sau này. Con là chị lớn, con phải làm gương cho các em con vì “đầu xuôi, đuôi lọt”, con mà học hành trôi chảy thì các em con mới tiến bộ được”. Những lời dặn dò ấy đã luôn là động lực giúp tôi cô gắng nhưng đồng thời cũng gây sức ép cho tôi, làm tuổi thơ tôi khá đơn điệu, chỉ loanh quanh giúp bố mẹ việc nhà, đi học và dạy các em học. Các em tôi cũng vì vậy mà thích đọc sách, chăm chỉ học tập từ nhỏ và cũng có kết quả học tập khá tốt.
Khác với đa phần trẻ em các gia đình khác, tôi rất yêu thích kiến thức, thích sách vở, học hỏi nên việc học tập với tôi khá dễ dàng.Nhưng cá tính tôi chỉ hợp với việc học tự nhiên, không hợp với những cách học ép buộc nên tôi không bao giờ quá xuất sắc.Sau này khi đi ra nước ngoài, tôi cũng cảm thấy hoàn toàn thoải mái vì họ không yêu cầu học nhồi nhét như Việt nam. Thời gian học Đại học ở nước ngoài đã mở mang tầm mắt cho tôi, giúp tôi hiểu không nên chỉ tập trung vào học kiến thức như nhà trường và bố mẹ tôi luôn hướng tới mà cần học cả những kỹ năng sống như biết ăn mặc, trang điểm, quản lý tiền bạc, biết giao tiếp, vui chơi… Chỉ khi con người có hiểu biết toàn diện thì cuộc sống mới có ý nghĩa và giúp được mọi người xung quanh.
Theo thời gian, ba chị em tôi đều lập gia đình, có con cái.Chúng tôi luôn ý thức dạy con tiếp tục truyền thống học tập của gia đình, nhất là khi anh chị em dâu rể đều là người có học. Tuy nhiên tôi cũng rất quan tâm dạy con những kỹ năng cần thiết để con có thể sống tự lập và có đời sống phong phú. Dù các cháu đều học chuyên nên khá bận chịu nhưng tôi vẫn thu xếp cho các cháu học đàn, học nấu ăn, khiêu vũ… Hàng ngày các cháu phải tự dọn dẹp phòng mình, gấp cất quần áo cho cả nhà và giúp mẹ nấu ăn. Chính vì vậy, mặc dù hai vợ chồng tôi thường xuyên phải đi công tác xa nhà lâu ngày nhưng các cháu đều có thể tự lo liệu. Việc chia sẻ nội trợ làm mẹ con gần gũi thông cảm với nhau hơn dù thời gian đầu các cháu không vui vì bạn bè không ai phải làm cả.Nhưng những kỹ năng này đã giúp các cháu rất nhiều khi đi học ở nước ngoài và khi lập gia đình.
Nhìn lại tôi rất cám ơn bố mẹ đã truyền cho chúng tôi tinh thần yêu thích học tập, sách vở, đã chuẩn bị cho chúng tôi một hành trang học vấn vững vàng để bước vào đời. Ba chị em chúng tôi đã cố gắng tiếp tục truyền thống đó trong gia đình nhỏ của mình, đồng thời bổ sung thêm những kiến thức khác cho con cháu. Tôi mong mỏi để các cháu không chỉ hiếu học để kiếm sống mà quan trọng hơn là hiếu học để mở mang kiến thức, hoàn thiện con người mình và đóng góp tốt hơn nữa cho xã hội.
Leave a Reply